Chính phủ Việt Nam đã đánh giá tiềm năng NLTT như một giải pháp quan trọng để đảm bảo tính bền vững của các nguồn năng lượng. Do đó, nhiều cơ chế, chính sách phát triển NLTT đã được ban hành, trong đó tập trung vào khuyến khích phát triển nguồn điện sử dụng nguồn NLTT, nhất là nguồn điện gió, điện mặt trời. Nhờ đó, các nguồn điện sử dụng NLTT đã có các bước phát triển vượt bậc trong thời gian gần đây. Tuy nhiên, việc phát triển các dự án NLTT cũng đã gặp không ít các khó khăn, vướng mắc.
Tổng quan năng lượng tái tạo
Năng lượng là yếu tố quan trọng góp phần vào sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế Việt Nam. Việt Nam đang trong quá trình phát triển để trở thành một nước công nghiệp, sự phụ thuộc vào ngành năng lượng cũng sẽ tăng lên tương ứng.
Với nguồn năng lượng trong nước tương đối dồi dào, đặc biệt là thủy điện, than đá, dầu mỏ và khí đốt, sự tăng trưởng và phát triển của ngành năng lượng Việt Nam đã có đóng góp quan trọng vào quá trình công nghiệp hóa và phát triển kinh tế - xã hội.
Khi nền kinh tế tiếp tục mở rộng, nhu cầu nguồn năng lượng sơ cấp của Việt Nam dự kiến sẽ tăng bình quân 4,6%/năm, từ 105 MTOE (triệu tấn dầu tương đương) năm 2020 lên 321 MTOE vào năm 2045, chủ yếu là nhu cầu than và khí đốt trong lĩnh vực phát điện và các sản phẩm dầu trong ngành giao thông vận tải.
Trong gần mười năm qua, sản lượng điện sản xuất đã tăng hơn 2,3 lần, từ 101,4 tỷ kWh vào năm 2010 lên gần 235 tỷ kWh vào năm 2019. Sản lượng điện của Việt Nam được dự báo sẽ tiếp tục tăng nhanh, với tốc độ trung bình hàng năm là 5,6%, từ 245 tỷ kWh năm 2020 lên 950 tỷ kWh vào năm 2045.
Mặc dù tỷ lệ sử dụng nhiên liệu hóa thạch trong sản xuất điện dự báo giảm từ 62,4% năm 2020 xuống 57% vào năm 2045, tuy nhiên trong cơ cấu điện năng sản xuất, các nguồn nhiên liệu hóa thạch (than và khí đốt) vẫn chiếm tỷ trọng lớn, điều này sẽ gây áp lực lớn lên nguồn tài nguyên thiên nhiên đang cạn kiệt, nhu cầu nhập khẩu nhiên liệu (than, LNG) cho sản xuất điện ngày càng tăng, đồng thời ảnh hưởng lớn đến biến đổi khí hậu và an ninh năng lượng, do đó việc phát triển NLTT cần được quan tâm để phát triển nhanh trong thời gian tới.
Các chính sách liên quan đến năng lượng tái tạo
Năng lượng có vai trò rất quan trọng cho tăng trưởng kinh tế, các nỗ lực phát triển bền vững tổng thể của quốc gia không thể tách rời sự phát triển bền vững của ngành năng lượng. Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 55-NQ/TW về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 với mục tiêu bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia; cung cấp đầy đủ năng lượng ổn định, có chất lượng cao với giá cả hợp lý cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững.
Tại Quyết định số 2068/QĐ-TTg ngày 25/11/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã đề ra các cơ chế, chính sách về phát triển các năng lượng tái tạo, trong đó giao Bộ Công Thương xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt giá điện áp dụng cho các dự án sản xuất điện sử dụng năng lượng tái tạo nối lưới. Các đơn vị điện lực có trách nhiệm mua toàn bộ điện năng được sản xuất từ việc sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo nối lưới thuộc địa bàn.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các Quyết định về cơ chế hỗ trợ các dự án điện mặt trời, điện gió, điện sinh khối, trong đó có giá bán điện (giá FIT) từ các nguồn năng lượng tái tạo này. Chính sách từng bước hình thành thị trường về năng lượng tái tạo, khuyến khích các tổ chức, cá nhân với các hình thức sở hữu khác nhau tham gia vào việc phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo đã thu hút được nguồn vốn lớn từ các thành phần kinh tế.
Các cơ chế, chính sách hỗ trợ đã tạo bước phát triển vượt bậc của năng lượng tái tạo trong thời gian gần đây. Từ mức công suất không đáng kể vào năm 2018, đến nay, tổng công suất các nguồn điện sử dụng năng lượng tái tạo đã chiếm khoảng 10% tổng công suất của hệ thống điện quốc gia, trong đó có trên 6.000 MW công suất điện mặt trời, khoảng 700 MW công suất điện gió và 470 MW công suất điện sinh khối.
Trong bối cảnh tăng trưởng nhu cầu điện năng luôn ở mức cao, ngành điện đã có nhiều cố gắng trong phát triển và cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu điện phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy vậy, trong quá trình phát triển, ngành điện cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức và còn tồn tại những hạn chế; các dự án nguồn điện, đặc biệt là các dự án ngoài EVN thường bị chậm so với quy hoạch được duyệt, nhiều dự án điện BOT bị chậm tiến độ do thời gian chuẩn bị đầu tư, đàm phán bộ hợp đồng BOT kéo dài, như Vân Phong I, Vĩnh Tân III, Nghi Sơn II, Vũng Áng II, Nam Định I,…
Những hạn chế này là nguyên nhân dẫn tới trong giai đoạn 2021 - 2025, Việt Nam phải đối mặt với nguy cơ thiếu hụt điện năng. Để khắc phục nguy cơ thiếu điện, Bộ Công Thương đã đề xuất nhiều giải phápcấp bách, trong đó có giải pháp bổ sung các nguồn điện gió, điện mặt trời vào vận hàn hgiai đoạn 2021-2025. Với ưu thế quy mô nhỏ, phân bố rộng rãi trên toàn quốc, thời gian xây dựng nhanh, đây sẽ là giải pháp hiệu quả để bù đắp lượng điện năng thiếu hụt; ước tính mỗi năm cần đưa vào vận hành khoảng 3.000 – 5.000 MW công suất các nguồn năng lượng tái tạo.
Các cơ chế khuyến khích phát triển các nguồn sử dụng NLTT đã được ban hành, tuy nhiên trong quá trình triển khai vẫn gặp không ít khó khăn, vướng mắc; do đó cần có các giải pháp tháo gỡ để khuyến khích các doanh nghiệp đẩy nhanh phát triển các nguồn điện này.
Các khó khăn, vướng mắc đối với phát triển NLTT, đề xuất các giải pháp khắc phục
Các vướng mắc về chính sách và các quy định pháp luật hiện hành
Việc thiếu các chính sách và quy định hỗ trợ phát triển NLTT có thể cản trở việc áp dụng nguồn năng lượng này. Do bản chất của cấu trúc NLTT, thị trường NLTT cần có các chính sách và thủ tục pháp lý rõ ràng để tăng sự quan tâm của các nhà đầu tư. Các cơ quan quản lý cần đưa ra các chính sách với các điều kiện tạo ra môi trường đầu tư ổn định và có thể dự đoán được, giúp vượt qua các rào cản và đảm bảo dự đoán được dòng doanh thu của các dự án. Tuy nhiên, các cơ chế hỗ trợ phát triển NLTT chưa đưa ra được định hướng lâu dài.
Tại Quyết định số 13/2020/QĐ-TTg ngày 06/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế khuyến khích phát triển điện mặt trời tại Việt Nam có quy định một số dự án điện mặt trời nối lưới và các dự án điện mặt trời mái nhà đáp ứng các điều kiện được áp dụng biểu giá hỗ trợ (giá FIT) khi đưa vào vận hành thương mại đến ngày 31/12/2020. Bộ Công Thương nghiên cứu hoàn chỉnh cơ chế đấu thầu các dự án điện mặt trời để áp dụng từ năm 2021.
Như vậy, từ đầu năm 2021, các dự án điện mặt trời không được áp dụng biểu giá FIT, trong khí cơ chế đấu thầu chưa được ban hành.
Thủ tướng Chính phủ cũng có Quyết định số 39/2018/QĐ-TTg ngày 10/9/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 37/2011/QĐ-TTg về cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án điện gió tại Việt Nam. Trong đó giá mua điện của dự án điện gió trong đất liền và trên biển được áp dụng giá FIT đối với các dự án vào vận hành thương mại trước ngày 01/11/2021. Như vậy, sau thời điểm này, các dự án điện gió cũng chưa có cơ chế thực hiện.
Bộ Công Thương cần sớm hoàn thiện Chương trình hành động thực hiện Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Trong đó cần đề ra các văn bản quy phạm pháp luật, các quy định cần thiết cần ban hành.
Bên cạnh đó, còn thiếu các quy chuẩn, tiêu chuẩn dụng các công nghệ năng lượng tái tạo, điều này cũng gây nhiều khó khăn cho chủ đầu tư các dự án, cũng như cho các cơ quan quản lý nhà nước. Khi chưa có các tiêu chuẩn, chủ đầu tư phải áp dụng theo tiêu chuẩn của quốc gia cung cấp thiết bị. Trường hợp chọn tiêu chuẩn thấp có thể dẫn đến ảnh hưởng đến môi trường và chất lượng điện năng; phải thay thế, nâng cấp khi các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia cao hơn tiêu chuẩn đã chọn. Ngược lại, nếu chọn tiêu chuẩn quá cao, dẫn đến tăng giá thiết bị, dự án không cạnh tranh được với các dự án khác cùng loại, hoặc ảnh hưởng đến dòng tiền của doanh nghiệp.
Giá giá FIT cho các dự án NLTT được áp dụng thống nhất trong cả nước có thể dẫn đến hạn chế nguồn lực cho phát triển. Khả năng phát của các dự án điện gió, điện mặt trời phụ thuộc nhiều vào tốc điện gió bình quân và bức xạ năng lượng mặt trời; trong khi đất nước trải dài từ Bắc đến Nam với gần 2.000 km với nhiều vùng khí hậu khác nhau, do đó nếu lựa chọn theo mức bình quân sẽ dẫn đến hiện tượng tập trung đầu tư vào khu vực có tốc độ gió, bức xạ tốt, trong khi không thu hút được đầu tư vào khu vực có tốc độ gió, bức xạ thấp. Đề nghị các ban hành biểu giá FIT cho các nguồn NLTT theo một số vùng.
Giá giá FIT cho các dự án NLTT được áp dụng chung, không phân biệt quy mô sẽ dẫn đến bất cập, các dự án có quy mô lớn sẽ mang lại hiệu quả cao hơn các dự án có quy mô nhỏ hơn nếu có các điều kiện tự nhiên tương tự. Đề nghị giá FIT thay đổi theo quy mô công suất áp dụng đối với các dự án có quy mô vừa và nhỏ. Đối với các dự án có quy mô lớn, thực hiện theo cơ chế giá bán điện được xác định trên cơ sở đàm phán Hợp đồng mua bán điện giữa chủ đầu tư và đơn vị mua điện, tương tự như tại các dự án điện (thủy điện, nhiệt điện than, nhiệt điện khí,..) đã và đang thực hiện.
Quy định hệ thống điện mặt trời mái nhà có công suất không quá 1 MW, áp dụng chung cho các hộ gia đình và các doanh nghiệp là chưa hợp lý. Điều này dẫn đến nhiều cơ quan, doanh nghiệp có diện tích mái của công trình xây dựng lớn, có thể xây dựng điện mặt trời với công suất lớn hơn để cấp điện cho cầu của mình cũng không được xây dựng, gây nên lãng phí tài nguyên và nguồn lực. Đề nghị phân tách quy định này thành 2 phần, đối với các hộ gia đình quy định công suất tối đa nhỏ hơn (khoảng vài chục kW); đối với các cơ quan, doanh nghiệp thực hiện phát triển nguồn điện sử dụng năng lượng tái tạo với mục đích chính là tự đảm bảo cho nhu cầu điện, nên quy định công suất hệ thống điện mặt trời mái nhà có công suất không vượt quá nhu cầu công suất cực đại của mình.
Trong trường hợp này, doanh nghiệp đấu nối với lưới điện quốc gia để mua điện khi nguồn điện phát nhỏ hơn nhu cầu và bán điện khi nguồn phát lớn hơn nhu cầu. Như vậy, hệ thống điện quốc gia có thêm chức năng dự phòng cho nguồn điện tự phát của cơ quan, doanh nghiệp. Nhằm đảm bảo lợi ích của các bên, cần bổ sung quy định về chi phí đấu nối và giá công suất (giá cơ quan, doanh nghiệp phải trả cho một kW (hoặc một kVA) công suất đấu nối với lưới điện của đơn vị điện lực).
Quy định khách hàng sử dụng điện cuối cùng phải bán toàn bộ điện năng sản của hệ thống điện mặt trời mái nhà và mua toàn bộ nhu cầu điện từ đơn vị điện lực, trong khi về bản chất, điện phát từ điện mặt trời mái nhà trước hết cấp cho nhu cầu của khách hàng sử dụng điện, thừa mới bán điện cho hệ thống điện quốc gia. Điều này sẽ dẫn đến một số bất cập sau:
Đầu tiên là phải trả 2 lần thuế VAT cho cùng một đơn vị điện năng: Khách hàng phải trả thuế VAT cho lượng điện mua từ đơn vị điện lực; đơn vị điện lực phải trả thuế VAT cho sản lượng điện mua từ điện mặt trời mái nhà của khách hàng.
Hai là khách hàng phải trả và nhận với mức giá khác nhau cho cùng một sản lượng điện: Các khách hàng đều bán điện từ hệ thống điện mặt trời mái nhà với giá điện là 1.943 đ/kWh (tương đương với 8,38 UScent/kWh); trong khi mua điện từ EVN với mức giá khác nhau. Đối với khách hàng là hộ gia đình, mua điện theo biểu giá điện bậc thang với giá mua điện bình quân khoảng 2.700 đ/kWh, cao hơn giá bán điện khoảng757 đ/kWh; đối với khách hàng áp dụng biểu giá bán lẻ điện cho kinh doanh, giá mua điện bình quân khoảng 2.442 – 2.629 đ/kWh (tính theo giờ bình thường trong biểu giá điện theo thời gian tại các cấp điện áp khác nhau), cao hơn giá bán điện khoảng 499 –686 đ/kWh; đối với khách hàng áp dụng biểu giá bán điện cho sản xuất, giá mua điện bình quân khoảng 1.536 – 1.685 đ/kWh (tính theo giờ bình thường trong biểu giá điện theo thời gian tại các cấp điện áp khác nhau), thấp hơn giá bán điện khoảng 288 –407 đ/kWh.
Để giải quyết các bất cập trên, đề nghị các khách hàng sử dụng điện cuối cùng mua điện từ hệ thống điện quốc gia, thực hiện phát triển nguồn điện sử dụng năng lượng tái tạo với mục đích chính là tự đảm bảo cho nhu cầu điện của mình, được áp dụng cơ chế thanh toán bù trừ như phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định số 2068/QĐ-TTg ngày 25/11/2015. Điện sản xuất ra trước hết cấp cho nhu cầu điện của mình, sản lượng điện thừa (tự sản xuất cao hơn nhu cầu) được bán điện cho EVN, sản lượng điện thiếu (tự sản xuất thấp hơn nhu cầu) được mua điện từ EVN. Thực hiện thanh toán theo cơ chế bù trù, đối với các cơ quan, doanh nghiệp việc hạch toán theo quy định kế toán hiện hành; đối với các hộ gia đình, chỉ tính thuế đối với sản lượng điện mua, bán với EVN, không tính thuế đối với sản lượng điện tự dùng.
Về sử dụng đất, các dự án NLTT có các đặc thù: Đối với các dự án điện gió, chỉ sử dụng đất lâu dài đối với cột điện gió và một phần diện tích cần thiết để tập kết vật tư cho sửa chữa, bảo dưỡng; đối với các dự án điện mặt trời, diện tích đất vẫn có thể canh tác các cây trồng phù hợp (đối với các dự án trên mặt đất) hoặc nuôi trồng thủy sản (đối với các dự án trên mặt nước); như vậy, các dự án NLTT có thể kết hợp với sản xuất nông nghiệp.
Việc thu hồi đất để thực hiện các dự án NLTT như hiện nay đang gặp một số khó khăn bất cập:
Phải thực hiện các thủ tục chuyển đổi mục đích sử dụng đất, thực hiện công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, cần điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt. Việc này dẫn đến công tác chuẩn bị đầu tư kéo dài, tăng chi phí của dự án.
Tại hầu hết các dự án đều có vướng mắc giữa nhà đầu tư và người nông dân bị thu hồi đất do hiện nay đơn giá bồi thường, giải phóng mặt bằng do các địa phương ban hành thấp hơn giá thị trường. Ngoài ra, người nông dân bị thu hồi đất, sau khi sử dụng hết số tiền được bồi thường sẽ không có đất để mưu sinh, sẽ bị bần cùng hóa, ảnh hưởng đến phát triển bền vững tại khu vực nông thôn; trái với chính sách “người cày có ruộng” của Đảng và Nhà nước.
Để khắc phục tình trạng hiện tượng này có thể thực hiện theo các hướng sau:
Người nông dân góp đất với doanh nghiệp để thực hiện dự án theo hình thức công ty cổ phần. Phần vốn góp của người nông dân là giá trị sử dụng đất và được đánh giá theo giá thị trường. Thực hiện phương án này sẽ có một số bất cập: Không bình đẳng giữa nhà đầu tư và người nông dân do phần vốn góp của người nông dân được bảo đảm bằng đất, có giá trị lâu dài, không suy giảm theo thời gian; trong khi nhà đầu tư góp vốn bằng tiền để tạo thành tài sản cố định của dự án, giá trị của tài sản sẽ giảm dần theo thời gian và được thu hồi qua khấu hao tài sản cố định. Tỷ lệ phần vốn góp của người nông dân sẽ giảm dần khi doanh nghiệp thực hiện tăng vốn điều lệ.
Người công dân cho doanh nghiệp thuê đất để thực hiện dự án, giá thuê đất có thể thay đổi theo thời gian theo cơ chế thị trường. Theo phương án này, người nông dân không mất quyền sử dụng đất, vẫn được sản xuất trên đất của mình, đời sống được đảm bảo lâu dài.
Với các phân tích trên, đề xuất cơ chế sử dụng đất cho phát triển các dự án NLTT được thực hiện như sau:
Kết hợp phát triển các dự án NLTT với sản xuất nông nghiệp. Chủ đầu tư không phải thực hiện chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Chủ đầu tư các dự án NLTT thuê đất của các hộ nông dân để thực hiện dự án, giá thuê đất được điều chỉnh theo thỏa thuận của 2 bên. Người nông dân vẫn thực hiện sản xuất nông nghiệp, nhưng không được làm ảnh hưởng đến vận hành của nhà máy sử dụng NLTT.
Về cơ chế thực hiện đấu thầu các dự án NLTT: Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương đang nghiên cứu các phương án đầu thầu để chọn nhà đầu tư phát triển các dự án NLTT. Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) đang hỗ trợ Bộ Công Thương nghiên cứu cơ chế đấu thầu các dự án điện mặt trời. WB đề xuất hai phương án mới triển khai dự án điện mặt trời: “đấu thầu cạnh tranh theo trạm biến áp” và “đấu thầu cạnh tranh công viên điện mặt trời”.
Nguyên tắc của đấu thầu theo trạm biến áp là sẽ đấu thầu một lượng công suất cố định, theo một lịch trình được đặt sẵn và ở một khu vực đã được xác định. Đấu thầu cạnh tranh theo công viên năng lượng mặt trời sẽ thực hiện theo cách sẽ thực hiện công tác giải phóng mặt bằng, xây dựng toàn bộ cơ sở hạ tầng (đường giao thông, đường dây tải điện,…).
Các nhà đầu tư sẽ đấu thầu để được quyền xây dựng các nhà máy điện trên mảnh đất đã được giải phóng và các cơ sở hạ tầng đã được xây dựng. Theo khuyến nghị của các chuyên gia tư vấn, để có thể có kết quả đấu thầu là giá bán điện thấp thì Nhà nước cần chia sẻ các rủi ro cho nhà đầu tư về hạ tầng sạch, hợp đồng mua bán điện có bảo lãnh Chính phủ về bao tiêu, chuyển đổi ngoại tệ,...Bộ Công Thương đang nghiên cứu các đề xuất này, xem xét sự phù hợp với các quy định hiện hành của Việt Nam, có cần điều chỉnh hay ban hành bổ sung quy định pháp lý, khả năng áp dụng thực tế tại Việt Nam,... để báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Việc thực hiện đấu thầu theo đề xuất của WB hoặc thực hiện theo quy định pháp luật về đấu thầu của Việt Nam (lập, phê duyệt dự án đầu tư; lập hồ sơ mời thầu, chọn thầu,…), để đưa vào vận hành dự án thí điểm theo cơ chế này có thể cần thời gian 2 – 3 năm. Như vậy có thể không đáp ứng yêu cầu phải bổ sung công suất nguồn điện mặt trời từ năm 2021.
Đề xuất việc thực hiện lựa chọn phát triển các dự án điện mặt trời (và cả các dự án NLTT khác) có thể thực hiện theo các bước sau:
Xác định khối lượng cần đầu tư xây dựng các dự án điện mặt trời giai đoạn 2021 – 2025: Trên cơ sở chuẩn xác lại tiến độ các dự án nguồn điện lớn đang xây dựng, cần tiến hành cân bằng công suất – điện năng, xác định khối lượng các dự án điện mặt trời và điện gió cần xây dựng trong giai đoạn 2021 – 2025, trên cơ sở đó lập kế hoạch đấu thầu cho phát triển các dự án điện mặt trời trong giai đoạn này.
Việc cân đối được tiến hành theo các vùng, miền để xác định công suất cần đưa vào trong từng năm của mỗi vùng, miền. Theo cân đối sơ bộ, việc thiếu nguồn điện sẽ tập trung ở khu vực miền Nam, nên sẽ ưu tiên phát triển tại khu vực này.
Nhằm tránh quá tải cho lưới điện truyền tải, các dự án điện mặt trời không nên tập trung quá lớn tại một hoặc một vài địa điểm. Việc thực hiện các dự án có quy mô vừa phải (30 – 50 MW), bố trí gần các trạm biến áp 110 kV, khi đó các dự án điện mặt trời có thể đấu nối vào hệ thống điện quốc gia qua các đường dây trung áp. Việc này sẽ giảm đầu tư xây dựng lưới điện, giảm tổn thất điện năng.
Trên cơ sở công suất nguồn điện mặt trời cần đưa vào hàng năm, tổ chức việc đấu thầu để lựa chọn các dự án. Việc lựa chọn được thực hiện trên cơ sở giá chào của các nhà đầu tư, các dự án có giá chào thấp được xếp trước, cho đến khi đủ công suất nguồn điện cần đưa vào vận hành trong năm đó của các vùng, miền và toàn quốc.
Các khó khăn, vướng mắc kỹ thuật
Phát triển không đồng bộ giữa các dự án NLTT với lưới điện truyền tải: Để xây dựng và đưa vào vận hành một dự án NLTT thường chỉ khoảng 6 tháng tới một năm, trong khi để triển khai các thủ tục đầu tư và xây dựng một công trình đường dây, hoặc trạm biến áp truyền tải thông thường từ 2 đến 3 năm, nếu vướng mắc về đền bù, đất đai, v.v... thì thời gian cón kéo dài thêm 1 - 2 năm.
Trong thời gian qua, các dự án NLTT được tập trung phát triển tại các khu vực có tiềm năng lớn (các tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận) dẫn đến quá tải một số đường dây và trạm biến áp 110kV, 220kV. Việc mất đồng bộ giữa phát triển nguồn NLTT vừa qua đã gây ra các điểm "nghẽn" về truyền tải, phải giảm phát tới 30 - 40%, thậm chí có dự án phải giảm hơn 60% công suất.
Điều này làm giảm khả năng hỗ trợ cung cấp điện từ các nguồn NLTT trong khi đang thiếu nguồn ở khu vực phía Nam, phải tăng cường huy động từ phía Bắc; đồng thời gây thiệt hại cho nhà đầu tư khi không huy động hết khả năng nguồn.
Chính phủ và các bộ, ngành liên quan đã nắm rõ tình huống và có nhiều hành động đẩy nhanh xây dựng lưới điện nhằm giải tỏa công suất, đến nay tình hình qua tải lưới điện và giảm huy động từ các nguồn NLTT về cơ bản đã được khắc phục. Trong thời gian tới cần phải có sự phối hợp chặt chẽ hơn giữa các bên liên quan: Cơ quan quản lý nhà nước Trung ương và địa phương, chủ đầu tư và đơn vị điện lực trong quá trình thẩm định, phê duyệt Quy hoạch, chủ trương đầu tư trong quá trình chuẩn bị đầu tư và đầu tư. Lưới điện cần được đầu tư mới hoặc nâng cấp trước khi kết nối với các nguồn điện sử dụng NLTT.
Nếu chưa có thỏa thuận liên quan đến trách nhiệm của mỗi bên trong việc thực hiện đầu tư lưới điện thì không được khởi công xây dựng công trình.
Các dự án điện gió, điện mặt trời có công suất biến đổi phụ thuộc vào các điều kiện tự nhiên (tốc độ, bức xạ mặt trời), các dự án điện gió sẽ ngừng phát khi không có giá, các dự án điện mặt trời không phát điện khi tắt năng. Điều này ảnh hưởng một phần đến quá trình vận hành hệ thống điện. Trong điều kiện các nguồn điện vận hành linh hoạt (thủy điện, tuabin khí, nhiệt điện dầu) của hệ thống điện hiện nay vẫn chiếm tỷ trọng tương đối lớn (khoảng 50%), trong khi các nguồn điện gió, điện mặt trời chiếm tỷ trọng nhỏ (khoảng 10%); việc vận hành hệ thống điện sẽ không gặp nhiều khó khăn.
Tuy nhiên, khi tỷ trọng các nguồn điện gió, điện mặt trời tăng lên trong thời gian tới (khoảng 28 – 30% vào năm 2030), cần có giải pháp để đảm bảo vận hành an toàn, liên tục hệ thống điện quốc gia. Để quản lý hiệu quả nguồn NLTT biến đổi quy mô lớn, tính linh hoạt phải được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực của hệ thống năng lượng, từ phát điện đến hệ thống truyền tải và phân phối, lưu trữ (cả điện và nhiệt) và phía cầu.
Giải pháp phía nguồn cung: Nâng cao độ chính xác của công tác dự báo thời tiết; kết hợp phát triển các nguồn điện linh hoạt để thích ứng với sự biến đổi: thủy điện; thủy điện tích năng; Tuabin khí đơn;...
Giải pháp phía truyền tải: Thực hiện liên kết lưới điện với các nước trong khu vực; bảo đảm sự cân đối giữa nguồn NLTT và nhu cầu trong phạm vi lớn với lưới điện truyền tải mạnh; phát triển hệ thống lưu trữ năng lượng quy mô lớn và đầu tư phát triển, cải tạo hệ thống lưới truyền tải.
Giải pháp phía cầu: Tập hợp các nguồn điện đấu nối với lưới phân phối cho các đơn vị điện lực địa phương; thực hiện quản lý phía cầu; tối ưu hóa vận hành hệ thống phân phối với các nguồn năng lượng phân tán.
Giải pháp lưu trữ toàn hệ thống: Phát triển hệ thống lưu trữ năng lượng quy mô lớn; giải pháp power-to-x: tự động chuyển đổi điện năng dư thừa cho các nhu cầu khác.
Đánh giá tài nguyên năng lượng tái tạo: Các số liệu về NLTT của Việt Nam chưa được xây dựng hoàn thiện, tin cậy làm cơ sở cho phát triển dự án.
Các khó khăn, vướng mắc trong đầu tư
Thiếu mô hình phù hợp: Việt Nam hiện chưa có nhiều dự án NLTT được triển khai, các nhà đầu tư phát triển dự án NLTT chưa thật hiểu rõ về lợi ích và các rủi ro liên quan đến phát triển các dự án.
Khó huy động vốn trong nước: Các nhà đầu tư trong nước bị hạn chế về nguồn lực, mặc dù có nhiều dự án có hiệu quả. NLTT là lĩnh vực đầu tư mới, chưa quen thuộc với nhiều nhà đầu tư trong nước, có khả năng rủi ro trong việc bảo đảm thu được lợi nhuận chắc chắn.
Thu xếp nguồn vốn: Các nhà đầu tư dự án NLTT thường làm việc với các ngân hàng và các tổ chức tài chính để vay vốn. Trong khi các tổ chức tín dụng chưa thật sự quan tâm vì các dự án NLTT có nhiều rủi ro.
Các khó khăn, vướng mắc về thương mại
Cơ sở hạ tầng: Phát triển các dự án NLTT đòi hỏi đầu tư lớn ban đầu để xây dựng cơ sở hạ tầng (đường giao thông, cấp điện, nước thi công,…). Nhiều vùng được đánh giá tiềm năng cao; tuy nhiên, việc tiếp cận các địa điểm này rất khó khăn do hạ tầng còn yếu, khiến việc phát triển dự án là gần như không thể. Hoặc, chủ đầu tư phải mất thêm chi phí để gia cố lại hạ tầng dẫn đến tổng chi phí đầu tư tăng lên đáng kể.
Khảo sát: Vị trí tiềm năng phát triển NLTT có thể yêu cầu nghiên cứu, khảo sát trong một vài năm để xác định vị trí có thích hợp không.
Thị trường: Việc phi điều tiết ngành điện, phát triển thị trường điện cạnh tranh là xu hướng tất yếu. Tuy nhiên, cơ chế hoạt động của các dự án điện sử dụng NLTT cũng là một rào cản trong phát triển nguồn điện này.
Các khó khăn, vướng mắc về thị trường: Chi phí giao dịch lớn: Các dự án NLTT có quy mô nhỏ, trong khi các chi phí thực hiện dự án tướng đối lớn trong nhiều giai đoạn của quá trình phát triển.
Chi phí tài chính lớn: Các nhà đầu tư NLTT có thể có khó khăn để có được nguồn tài chính với lãi suất thấp.
Thiếu thông tin: Các tổ chức tài chính nói chung không quen thuộc với các công nghệ mới và có khả năng cảm nhận các dự án có nhiều rủi ro, do đó họ có thể cho vay với mức lãi suất cao hơn.
Việc thiếu các dịch vụ cung cấp thiết bị thay thế, sửa chữa, vận hành và bảo dưỡng (O&M) hệ thống cũng là một trong nguyên nhân làm gia tăng chi phí đầu tư của dự án NLTT.
Các khó khăn, vướng mắc về nguồn nhân lực kỹ thuật: Hiện tại, trong các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề chưa có ngành học chuyên sâu về lĩnh vực NLTT. Giảng viên cho lĩnh vực này còn thiếu, chương trình học còn hạn chế,… tạo nên một lổ hổng lớn về nhân sự cho lĩnh vực công nghệ “xanh” mới mẻ này. Đây là một khó khăn, vướng mắc lớn cho sự phát triển lĩnh vực này ở Việt Nam.
Chính vì vậy, để đảm bảo cung cấp năng lượng bền vững và sau đó là phát triển kinh tế bền vững của đất nước, Việt Nam cần tăng cường hơn nữa việc thực hiện các chương trình năng lượng tái tạo và sử dụng năng lượng hiệu quả. Theo kinh nghiệm tại nhiều quốc gia đã thành công trong việc thúc đẩy NLTT như Đức, Đan Mạch, Tây Ban Nha, Trung Quốc và Nhật Bản, những cam kết mạnh mẽ và dài hạn của Chính phủ là rất quan trọng trong việc thực hiện bất kỳ loại chính sách nào nhằm phát triển NLTT.
Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã có nhiều cơ chế, chính sách khác nhau để thúc đẩy phát triển NLTT. Tiến độ sản xuất NLTT đã tăng nhanh theo thời gian, tốc độ tăng trưởng NLTT ở Việt Nam đã có xu hướng tăng lên trong thời gian tới do ngày càng có nhiều nhà đầu tư quan tâm đến phát triển nguồn năng lượng nhằm tận dụng các ưu đãi của Chính phủ.
Việt Nam đã tiến một bước theo hướng tiếp cận chủ động hơn và chính sách về NLTT sớm được bổ sung, sửa đổi nhằm tạo sân chơi bình đẳng cho các nhà đầu tư hoặc nhà cung cấp công nghệ NLTT; việc tiếp tục bổ sung, sửa đổi nhằm cung cấp khuôn khổ pháp lý thuận lợi, cho phép các cơ quan quản lý nhà nước sẽ tham gia nhiều hơn; hy vọng rằng các cơ chế, chính sách NLTT sắp được ban hành sẽ có các nội dung nhằm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc đã trình bày ở trên, tạo điều kiện để hướng tới một thị trường bền vững và khuyến khích sản xuất ngày càng nhiều NLTT cho đất nước.
(*) Ông Nguyễn Văn Vy - Phó Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam